Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, sở hữu trí tuệ ngày càng trở thành một trong những công cụ được sử dụng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Song song với sự phát triển đó là tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Khó khăn trong công tác giải quyết xuất phát từ người dân và một bộ phận không nhỏ cộng đồng doanh nghiệp chưa nhận thức về sở hữu trí tuệ
Trong phạm vi bài viết ngày hôm nay, tôi xin trao đổi với các bạn về quy trình giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ?
Trong môi trường kinh tế thị trường hiện nay, đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng sáng chế là cách bảo hộ quyền lợi thiết thực trong kinh doanh của doanh nghiệp.(Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
1. Sở hữu trí tuệ là gì?
Sở hữu trí tuệ hay có khi còn gọi là tài sản trí tuệ, là những sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người. Ðó có thể là tác phẩm văn học, âm nhạc, phần mềm máy tính, phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, v.v…
Tại điều 4 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 đưa ra khái niệm quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Như vậy, Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của cá nhân, pháp nhân đối với các sản phẩm trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người hoặc một tổ chức, cho phép họ được sử dụng hay khai thác các khía cạnh thương mại của một sản phẩm sáng tạo. Quyền sở hữu trí tuệ là các quyền đối với những sản phẩm sáng tạo nói trên. Trong số các quyền này có 2 quyền thường được nhắc đến là quyền tài sản và quyền nhân thân.
– Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là các loại hình sáng tạo khác nhau mà con người nghĩ ra. Các đối tượng này cùng với chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ là mục tiêu bảo hộ của Hiệp định TRIPS và các điều ước quốc tế khác.
Theo điều 3 của Luật sở hữu trí tuệ quy định về đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
Thứ nhất: Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
Thứ hai: Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Thứ ba: Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.
Trên thực tế hiện nay, nhiều người còn có sự nhầm lẫn giữa bản quyền và quyền sở hữu công nghiệp: Bản quyền còn được gọi là quyền tác giả. Ðây là quyền đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Ngoài việc có thể đem lại giá trị kinh tế cho tác giả giống như ở các quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền còn đảm bảo quyền nhân thân của tác giả hay nói cách khác là đảm bảo uy tín, danh dự của tác giả gắn với tác phẩm của mình. Như vậy, có thể tạm hiểu những gì được gọi là “tác phẩm” tức là có bản quyền.
2. Tranh chấp sở hữu trí tuệ
2.1. Biện pháp giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ
Pháp luật hiện nay quy định về cách xử lý tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ bao gồm 3 hình thứ: truy cứu trách nhiệm hình sự, dân sự và biện pháp xử phạt hành chính. Ba cách thức giải quyết này khác nhau khá rõ ràng.
2.1.1 Giải quyết bằng biện pháp hành chính
Luật sở hữu trí tuệ quy định về việc xử phạt hành chính đối với các trường hợp tranh chấp sau:
+ Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội.
+ Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật sở hữu trí tuệ 2005 hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
+ Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
2.1.2 Giải quyết bằng biện pháp dân sự
Biện pháp giải quyết dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Các trường hợp cụ thể sẽ được chúng tôi đề cập tại mục 2.3 của phần này.
Tại Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định rõ các hình thức xử lý như sau:
+ Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
+ Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
+ Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
+ Buộc bồi thường thiệt hại.
+ Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
2.1.3 Giải quyết bằng biện pháp hình sự
Có hai hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự bao gồm:
+ Tội xâm phạm quyền tác giả.
Tội xâm phạm quyền tác giả Theo Bộ luật hình sự 2015.
+ Tội làm hàng giả.
2.2. Thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ
Về cơ bản, những tranh chấp về sở hữu trí tuệ sẽ được giải quyết bởi tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, nếu một trong các bên tranh chấp hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài thì lúc này vụ tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp tỉnh. Ngoài ra, đối với tranh chấp về sở hữu trí tuệ mà cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận thì sẽ được xét xử bởi tòa án nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể như sau:
2.2.1 Những tranh chấp về quyền tác giả:
+ Tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức nhằm xác định tác giả, đồng tác giả, chủ sở hữu tác phẩm;
+ Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả không phải là chủ sở hữu tác phẩm và chủ sở hữu tác phẩm về các quyền nhân thân, quyền tài sản của các chủ thể này;
+ Tranh chấp về thừa kế quyền tác giả;
+ Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sử dụng tác phẩm;
+ Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả;
+ Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm phái sinh (tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn);
+ Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với những người có quyền kề cận (quyền liên quan đến quyền tác giả) là người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
+ Tranh chấp giữa những tổ chức, cá nhân có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và những người khác có hành vi vi phạm quyền của họ;
+ Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả với những người có liên quan nhưng không phải là tác giả, bao gồm: người sưu tầm tài liệu cho tác giả, người cung cấp tài chính và phương tiện vật chất khác.
2.2.2 Tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp:
+ Tranh chấp nhằm xác định ai là tác giả, chủ sở hữu trí tuệ, người sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu công nghiệp;
+ Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng khởi kiện cá nhân, tổ chức (trong đó bao gồm cả chủ sở hữu các đối tượng này) xâm phạm quyền tác giả của mình;
+ Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, tên thương mại, bí mật kinh doanh; người có quyền sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý có khởi kiện cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình;
+ Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện người sử dụng trước các đối tượng sở hữu công nghiệp này trong trường hợp người sử dụng trước chuyển giao quyền sử dụng cho người khác hoặc mở rộng khối lượng, phạm vi so với ngày công bố trong đơn;
+ Cá nhân, tổ chức khởi kiện cá nhân, tổ chức khác cản trở, hạn chế quyền tự do sáng tạo, quyền sở hữu các sản phẩm trí tuệ của mình;
+ Tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
+ Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (còn gọi là hợp đồng li-xăng);
+ Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp;
+ Tranh chấp về quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng nhận);
+ Tranh chấp về việc trả thù lao và các khoản phí khác giữa Cục sở hữu trí tuệ và các chủ thể khác.
2.3. Người có quyền khởi kiện trong tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ
Nguyên đơn trong vụ kiện về quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Theo bộ luật tố tụng dân sự 2015, nguyên đơn được hiểu là “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm” Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ được quy định tại khoản 1, Điều 71-Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Nguyên đơn trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ có thể là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc một số người có quyền liên quan khác. Cụ thể như sau:
2.3.1 Đối với những tranh chấp về quyền tác giả, những người sau đây có quyền khởi kiện:
+ Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
+ Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
+ Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả;
+Người được thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
+ Người có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;
+ Người có quyền sử dụng hợp pháp tác phẩm thông qua hợp đồng sử dụng tác phẩm;
+ Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
2.3.2 Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, những người sau đây có quyền khởi kiện:
+ Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
+ Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh.
+ Người sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý.
+ Người được thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.
+ Người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng li-xăng.
+ Người biểu diễn; tổ chức, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; tổ chức phát thanh, truyền hình.
+ Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
Lưu ý: Khi xác định nguyên đơn trong trong chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cần lưu ý: Đối với quyền tác giả, quyền khởi kiện yêu cầu bảo hộ quyền tác giả phát sinh từ thời điểm cá nhân sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo đó dưới một hình thức vật chất nhất định. Tức là, nếu một người có ý tưởng sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa thể hiện ý tưởng này dưới bất kỳ hình thức nào như: giấy, gỗ, vải… thì không thể khởi kiện yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền của mình đối với ý tưởng. Hơn nữa, trong trường hợp tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khởi kiện cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền của họ (trừ các quyền nhân thân – quy định trong bộ luật dấn sự) việc khởi kiện chỉ được chấp nhận trong thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Thời hạn đó là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết.
Đối với quyền sở hữu công nghiệp, nếu tác giả, chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện tổ chức, cá nhân khác xâm phạm quyền của mình phải là người đã được cấp Văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp đó; và hành vi vi phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ.